Nhận được tin buồn:





Hà Thượng Nhân, Doãn Quốc Sỹ, Trần Thanh Hiệp, Lê Hữu Mục, Nguyễn Thanh Liêm, Nguyễn Xuân Vinh, Tạ Xuân Thạc, Lưu Trung Khảo, Lữ Lan, Trần Văn Trung, Phạm Đăng Sum, Vương Văn Bắc, Nguyễn Thanh Trang, Hồ Văn Kỳ Thoại, Lê Minh Đảo, Hồng Vũ Lan Nhi, Diệu Tần, Lý Đại Nguyên, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn Văn Canh, Thanh Thương Hoàng, Phan Đình Minh, Anh Bằng, Lê Dinh, Chu Bá Yến, Phan Nhật Nam, Trần Huy Bích, Chu Tất Tiến, Lâm Văn Bé, Lê Khằc Lý, Hoàng Ngọc Liên, Lê Xuân Nhuận, Vi Anh, Võ Đại Tôn, Lê Mộng Nguyên, Tiểu Tử Võ Hoài Nam, Trần Trọng Nhân, Lâm Chấn Thọ, Đoàn Hữu Định, Bùi Đức Lạc, Nam Lộc, Việt Dzũng, Cát Biển, Phan Anh Dũng, Vũ Đình Trường, Mạc Phương Đình, Nguyễn Ngọc Linh, Thái Tú Hạp, Trúc Hồ, Nguyễn Xuân Nam, Quỳnh Giao, Tiểu Thu, Lê Thúy Vinh, Phiến Đan, Thụy Trinh, Yên Thư, Minh Nguyệt, Thái Hà, Trần Văn Thuần, Song Thuận, Đỗ Thái Nhiên, Mùi Quý Bổng, Phạm Gia Cổn, Phan Tấn Ngưu, Huy Phương, Khanh Phương, Võ Đình Hữu, Lê Duy, Lê Đình Hải, Tam Giang Hoàng Đình Báu, Xuân Điềm, Thanh Huy, Vũ Hoài Mỹ, Hồ Đăng, Minh Châu LKT, Hải Yến, Châu Văn Để, Mai Thanh Truyết, Nguyễn Toàn Thắng,Vũ Duy Toại, Nguyễn Quý Đại, Mindy Hà, Nguyễn Nam Hà, Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Đình Thắng, Lý Tòng Tôn, Việt Sĩ, Yên Thư, Tăng Đức Sơn, Đỗ Tiến Đức, Kiều Mỹ Duyên, Diễm Chi, Vương Trùng Dương, Dương Hữu Chương, Phong Vũ, Luân Hoán, Nguyễn Cao Can, Yung Krall, Tống Hoàng, Dương Viết Điền, Phong Vũ, Vũ Văn Tùng, Peter Morita, Hải Triều, Lê Bình, Lê Anh Dũng, Nguyễn Lý Tưởng, Phạm Kim, Nguyễn Tuấn, Nhóm Văn Tuyển Houston, Nhóm Truyền Thông Từ Cánh Đồng Mây và Văn Đàn Đồng Tâm.



Đồng Thành Kính Phân Ưu



Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn

Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn sinh năm 1930 tại Cần Thơ, Học khóa 1 SVSQ Trừ bị Thủ Đức, Khóa 1 Quốc Gia Hành Chánh và bước chân vào chính quyền bằng chức vụ Quận Trưởng Quận Cái Bè, Định Tường, rồi Phó Tỉnh trưởng Định Tường, Phước Tuy và Long An. Sau đó ông ứng cử Dân biểu và trở thành Chủ tịch Hạ Viện ở nhiệm kỳ thứ 2 (1971-1975). Ông cũng trở thành Tổng Bí Thư của Đảng Công Nông từ năm 1969. Đến năm 1975 trước biến cố dồn dập về việc Cộng sản tấn chiếm miền Nam, ông đã được mời làm Thủ tướng vào khoảng đầu tháng 4 năm 1975.

Quận Cái Bè, một đơn vị mà vào thời điểm 1958 đang ở trong tình trạng bị Việt cộng lũng đoạn nhưng chỉ trong vòng nửa năm kể từ ngày nhậm chức, ông tân Quận trưởng, tuổi vừa 28, đã thực hiện được kế hoạch bình định quận Cái Bè. Sau đó, từ trách vụ nhỏ đến trách vụ lớn, trong gần 10 năm trời, người thanh niên từng tốt nghiệp thủ khoa Khóa I Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, và cùng một lúc được huấn luyêĩn quân sự tại hai quân trường sĩ quan Trừ bị Thủ Đức và Liên quân Đà Lạt, ông Nguyễn Bá Cẩn đã tận dụng khả năng của mình để phục vụ đất nước khi lần lượt giữ những chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Định Tường, Phước Tuy và sau cùng là Long An trước khi xin nghỉ giả hạn không lương để ứng cử Dân biểu Pháp nhiệm I.

Trong ngành Lập pháp, suốt hai nhiệm kỳ vói sự hiểu biết về Hiến pháp và thông thạo hành chánh, ông Nguyễn Bá Cẩn đã được bầu làm Đệ nhị Phó chủ tịch Hạ nghị viện và sau là Chủ tịch Hạ nghị viện để rồi trong những ngày tuyệt vọng của đất nước, vào tháng Tư năm 1975, ông can đảm nhận trọng trách làm Thủ tướng và thành lập một chính phủ mới.

Trong thời gian vừa qua, mặc dù tuổi tác đã cao, cựu thủ tướng cũng đã cùng các nhân sĩ yêu nước, nhân danh Chính Phủ hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa để đệ nạp hồ sơ thềm lục địa lên Liên Hiệp Quốc. Cựu Thủ Thướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn nhấn mạnh trong thư gởi Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc: “Nước Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) là một Quốc Gia thành hình hợp pháp theo đúng các nguyên tắc Công Pháp Quốc Tế, được hơn 80 quốc gia trên thế giới thừa nhận, kể cả bốn nước (Pháp, Anh, Mỹ, Cộng Hòa Trung Hoa) trong số năm quốc gia thành viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Việt Nam Cộng Hoà đã được nhận vào các tổ chức kỹ thuật của Liên Hiệp Quốc. Quốc Gia hợp pháp này đã là nạn nhân của cuộc chiến tranh xăm lược bằng võ lực bởi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) từ 1949 đến 1975.

Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn qua đột ngột qua đời sáng nay 20 tháng 5 tại San Jose California.

Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn là tấm gương sáng của lòng yêu nước trong sáng, giản dị, thanh cao.

Ban Chủ Trương và Ban Biên Tập NguoiVietBoston.com thành kính tiễn đưa anh linh cựu Thủ Tướng về nơi yên nghĩ trong cõi vĩnh hằng và xin chia buồn cùng tang quyến. (NguoiVietBoston.com tổng hợp và biên soạn)





Kỷ niệm với VĐĐT

Văn Đàn Đồng Tâm xin đăng bài tùy bút về Cần Thơ, tùy bút "Cần Thơ, quê hương tôi", cũng như bài viết cuối cùng sau đây, mang tên "Kỷ niệm học trò" của vị Thủ Tướng cuối cùng của VNCH, một nhà ái quốc đáng kính. (Việt Hải - Hoàng Nam)





Với GS Doãn Quốc Sỹ của Văn Đàn Đồng Tâm



Tại buổi ra mắt sách của Văn Đàn Đồng Tâm



KỶ NIỆM HỌC TRÒ

Nguyễn Bá Cẩn

Tôi may mắn trúng tuyển vào trường trung học Phan Thanh Giản năm 1942, giữa lúc thế chiến 2 lan rộng ở Âu Châu, Á Châu và ầm ĩ khắp Thái Bình Dương. Thật là một niềm vui vô hạn cho gia đình tôi vì trường Phan Thanh Giản là trường trung học công lập duy nhất ở miền Tây Nam Việt. Mỗi năm, trường tổ chức thi tuyển cho hàng ngàn thí sinh không những cho các tỉnh Hậu Giang mà luôn cả hai tỉnh Vỉnh Long và Sa Đéc thuộc Tiền Giang cũng đến Cần Thơ để tranh giành độ 100 chổ vào năm thứ nhất (vừa đủ cho 2 lớp học A và B), tương đương với đệ thất của chương trình trung học ngày nay. Riêng đối với tôi còn là một danh dự và hảnh diện được vào học trong khu trường qui mô đồ sộ, có hàng chục lớp học, hàng dãy lầu đầy đủ phòng việc cho Văn Phòng, các phòng thí nghiệm, phòng đọc sách, cùng các cơ sở đặc biệt như phòng ăn, phòng ngủ, bếp núc, bệnh xá, v.v.. cho học sinh nội trú.



Trung học Phan Thanh Giản

Trong thời điểm này, tại Đông Dương, quân đội Nhật Bổn tràn ngập từ Trung Hoa xuống tận Tân Gia Ba nên Chính quyền Bảo hộ của Pháp ở Đông Dương hợp tác với Nhật Bổn theo đường lối của Chính Phủ Vichy của Pháp chù trương hợp tác với phe Trục (Đức, Ý và Nhật) trong lúc Chính Phủ Pháp Tự Do thành lập tại Luân Đôn quyết tâm xếp hàng với Thế giới Tự Do để đánh bại phe Trục. Do đó từ Bắc vào Nam, quân đội Pháp phải tái phối trí để đề phòng bị quân đội Nhật đánh úp một ngày nào đó.

Tôi vừa học xong năm thứ nhất thì trường sở bị trưng dụng cho Trung đoàn 43 Bộ binh Thuộc địa (43ème RIC) sử dụng. Vì vậy bắt đầu năm thứ hai, trường trung học dời qua trường tiểu học. Cho tới khi tôi học xong chương trình trung học, trường vẫn chưa được dời về vị trí củ. Nhờ sự hợp tác với Pháp nên quân đội Nhật ngang nhiên đổ bộ vào Đông Dương và có mặt từ Bắc chí Nam của đất nước Việt Nam. Dưới thời Pháp thuộc, tại Nam Kỳ, chương trình giáo khoa của trung và tiểu học dạy toàn bằng Pháp văn. Mỗi tuần, chỉ có một giờ dành cho Việt văn, lúc bấy giờ gọi là “annamite”.

Sáu mươi sáu năm đã trôi qua với bao nhiêu biến cố thay đổi, từ chiến tranh sang hòa bình, từ chính trị lệ thuộc Pháp đến độc lập, từ cộng sản ở miền Bắc đến tự do dân chủ của 2 nền cộng hòa ở miền Nam, rồi từ hòa bình trở lại chiến tranh một lần nữa do cộng sản miền Bắc xâm lăng, trả thù đày đọa miền Nam và áp đặt nền “Bắc thuộc” độc tài toàn trị của cộng sản cho đến tận ngày nay. Viết lại chuyện cũ của tuổi học trò cách đây hơn nửa thế kỷ không thể tránh khỏi một vài lầm lổi thiếu sót.

Kỷ niệm đầu tiên là sân trường bổng nhiên được đào nhiều hầm trú ẩn hàng ngang dãy dọc để mỗi khi có còi hụ báo động máy bay Mỹ bay đến giội bom cơ sở quân sự Nhật Bổn thì toàn trường chạy nhanh xuống hầm để tránh bom. Thú thật tuổi học trò là tuổi biếng nhác và ham vui. Dân Cần Thơ chạy bom cả trăm lần nhưng chưa hề bị giội bom lần nào. Do đó khi đến trường học là mong có còi hụ, nhất là bữa nào mà đêm trước đó bị còi hụ, toàn tỉnh lỵ tắt hết đèn nên không ai thuộc bài học phải trả hôm sau. Ngoài ra, thời gian trú ẩn dưới hầm là thời gian vui nhộn nhất. Bao nhiêu câu chuyện vui buồn, “chọc huê”, tiếu lâm đều được mang ra tường thuât chọc cười ồn ào như nhóm chợ.

Cũng cần nhắc lại trong 2 năm 1944 và 1945, vì Sài Gòn bị giội bom quá nặng nên các trường học tại Sài Gòn đều bị đóng cửa. Các chị Gia Long nguyên quán Cần Thơ tản cư về tỉnh nhà xin vào học lớp tương đương của trung học Phan Thanh Giản. Mỗi lần có còi hụ là khổ sở cho các chị vì học sinh toàn trường đều mang guốc đi học nên khi bị thúc hối chạy nhanh xuống hầm, nam cũng như nữ đều bỏ rớt guốc lại sau lưng mình. Mỗi lần còi hụ chấm dứt là một màn tìm guốc và đổi guốc vô cùng nhôn nhịp sôi nổi, nhất là đổi guốc giữa nam và nữ học sinh. Chưa hết. Khi trở vào lớp học thì cả lớp cười rần lên vì trong lúc bỏ lớp chạy, thế mà có cậu nào trốn ở lại một phút để viết trên bản đen hàng chử to tướng “CÁ ĐỐI NẰM TRONG CỐI ĐÁ”. Đến khi thầy Đối giám thị nghe quá ồn ào, vào kiểm soát hỏi ai viết thì lặng im cả lớp. Đúng là nhất quỷ, nhì ma, thứ ba …”.

Trong năm thứ nhất, GS Hựu dạy Pháp văn. Các giáo sư Trần dạy Lý Hóa, GS Tuyết dạy Vạn Vật, GS Tiến dạy Sử Địa, GS Can dạy Toán, GS Tứ dạy Việt Văn, GS Ty dạy hội họa, v.v… Riêng GS Hựu đã để lại trong trí tôi nhiều ấn tương sâu đậm khó quên. Ông rất hiền đức, đôn hậu, tận tụy, chăm sóc học sinh từng chi tiết. Mỗi lần dạy tới bài nào, ông cũng bỏ bục cao bước xuống sàn gạch vừa đọc bài, vừa làm bộ tịch y như đóng kịch, mô tả đúng từng câu, từng chử, làm cho học sinh không sao quên được. Tôi còn nhớ rõ khi dạy bài “Người tiều phu” (Le bucheron), ông vừa đọc câu đầu “Un pauvre bucheron, tout couvert de ramée”, vừa khom lưng xuống nửa người, hai tay đưa lên vai phải giống như đang kềm bó củi nặng trĩu trên vai, đi từng bước ngắn để diễn tả bó củi quá nặng, vừa lê bước chậm chạp vừa thở hổn hển. Ông vốn thấp người, khổ người hơi tròn mặc dù lúc bấy giờ giáo sư hảy còn trẻ, nhưng đóng đúng vai tiều phu trong truyện, một tiều phu phải lam lũ cực nhọc lắm mới kiếm được miếng ăn hàng ngày. Thật là sống động. Tôi vẫn còn nhớ hình dáng Thầy Hựu y như mới đâu đây mặc dù 66 năm đã trôi qua.

Sang năm thứ hai, giáo sư Pháp văn là Thầy Trương Vĩnh Khánh, cháu nội của nhà văn hào bác học Trương Vĩnh Ký. Giáo sư thuộc gia đình giàu có, quyền quý trong Nam, đậu bằng cử nhân văn chương bên Pháp. Khác với tất cả giáo sư dạy trường Phan Thanh Giản, GS Khánh to lớn, phương phi hơn mọi người. Thời buổi chiến tranh, gạo châu củi quế. Trong lúc các thầy mặt quần short và áo sơ-mi đến trường, GS Khánh lúc nào cũng mặt đồ lớn loại tuýt-so (tussor) đắt tiền. Nếu các thầy khác đi bộ hoặc đạp xe máy đến trường thì GS Khánh chểm chệ ngồi xe kéo, miệng ngậm điếu xi-gà trông oai phong lẩm liệt. Khi thầy giảng bài trong lớp, các học sinh đàn anh bỏ ghế ngồi dưới lớp lên giành ngồi ghế hàng đầu. Để bò lên phía sau bảng đen lượm điếu thuốc xi-gà tắt lửa bị thầy quăng vào góc tường sau tấm bảng. Có lần thầy bắt được một anh lượm thuốc, thầy ôn tồn bảo “Xi-gà khi tắt rồi thì khét lắm. Có đốt lại hút cũng không ngon”. Mặc cho thầy giải thích, nếu điếu thuốc bị liệng chưa hút được phân nửa thì các học sinh ghiền thuốc vẫn lượm như thường… Thầy dạy luôn môn Luân lý. Có lần dạy tới bài “Biết ơn cha mẹ”, thầy gọi một trò lên để hỏi “Tại sao trò phải biết ơn cha mẹ?”. Trò này trả lời “Vì cha mẹ sanh ra tôi”. Ông vặn hỏi “Trò đâu có xin ổng bả sanh ra trò đâu?”. Trò này cũng khá lanh trí nói thêm “Vì cha me có công nuôi dưỡng dạy dỗ tôi”. Ông vặn hỏi tiếp “Sanh ra mà không nuôi, rủi trò chết đói thì ổng bả ở tù sao?”. Đối đáp một lúc thì học trò đuối lý. Tôi miển trình bày GS Khánh giải thích lý do tại sao, vì sẽ làm mất nhiều thời giờ. Điều tôi muốn lưu ý là phương pháp giảng bài bằng cách đối đáp giúp cho học sinh dể nhớ và dể hiểu hơn là đơn phương đọc bài làm cho học sinh nhàm chán.

Cũng nên mở dấu ngoặc tại đây để nói thêm là sau khi thế chiến 2 chấm dứt, Pháp trở lại tái chiếm Nam Kỳ. Trong lúc chiến tranh giành độc lập bộc phát trên toàn quốc, Pháp vẫn cố gìn giử thuộc địa cũ là Nam Kỳ, nên mới thiết lập Chính Phủ Nam Kỳ tự trị. Khi bác sĩ Lê Văn Hoạch, người Cần Thơ được mời làm Thủ Tướng Nam Kỳ, GS Trương Vĩnh Khánh được tham gia nội các với chức vụ Tổng Trưởng Giáo Dục. Rủi thay, trong một chuyến kinh lý miền Tây, khi đoàn xe của ông đến Giồng Dứa thuộc xã Long Định, cách ngã ba Trung Lương độ 3 cây số thì bị Việt Minh phục kích, hạ sát ông tại đây.



Cần Thơ, quê hương Nguyễn Bá Cẩn

Sang năm thứ ba (1944), GS dạy Pháp văn là Bà Le Guezenec, phu nhân của Trưởng Ty Bưu điện Cần Thơ. Từ năm thứ ba lên năm thứ tư, có thay đổi một số giáo sư như GS Trực dạy toán, GS Trọng dạy Vạn Vật, GS Giỏi dạy Việt Văn, v.v…. Riêng Bà Le Guézenec đã để một kỷ niệm khó quên cho lớp tôi trong giờ văn phạm Pháp văn, khi Bà dạy cách chia động từ có vần “OUDRE” sau cùng. Lý do là vì Bà gọi môt nam sinh chia động từ “remoudre” và một nữ sinh chia động từ “recoudre” làm cho cả lớp cười rộ lên cả mấy phút, không ngừng được, làm nghẻn lớp học, khiến bà nổi giận bỏ ra về. Học sinh lại càng mừng thêm, được dịp mạnh ai nấy to tiếng phát biều ầm lên. Đến lượt các chị phải bỏ lớp và sau cùng ra về luôn.

Sang năm thứ tư, thầy dạy Pháp văn là thầy Nguyễn Bá Cường. Thầy này cũng đỗ cử nhân Văn Chương bên Pháp. Thầy dạy rất hay, hấp dẫn, thao thao bất tuyệt. Ngặt một nổi, thầy nói tiếng Pháp còn nặng giọng Bắc nên mỗi vần “AIN” sau cùng của bất cứ chử nào cũng được thầy đọc rất mạnh thành “ANH” (đọc theo Bắc), khiến anh em chúng tôi làm một câu sau đây “DeMANH maTANH (Demain matin), un petit MaroCANH (Marocain), tout habillé de saTANH (satin), grimpe le Massif ArmoriCANH (Armoricain), en quête des raiZANH (raisins), v.v… Cứ độ còn 5 phút trước khi thầy đến lớp dạy, cả lớp đồng lượt đọc câu này, và nhấn thật mạnh vần “ANH”, rồi cùng cười rộn cả lớp. Tuổi trẻ thật hồn nhiên.

Ngoài việc học hành, tôi còn được chọn tham gia đội bóng tròn của trường, thường giao đấu với các hội bạn trong tỉnh. Rảnh rỗi hơn nữa thì đi bơi lội ở sông Cần Thơ hoặc sông Cáí Khế, hoặc tản bộ lên Bình Thũy hay vô Cái Răng. Ngoài ra, có môn chạy bộ là vui nhất. Tôi có chân trong toán chạy bộ của trường. Hàng ngày tập dượt chạy bộ từ đường Ngô Quyền xuống đến Hoà Bình (còn gọi là Hàng Xoài) thì quẹo mặt, đến đường Nguyễn An Ninh (còn gọi là Hàng Bả Đậu) thì quẹo trái, thẳng xuống tận đường mé sông thì quẹo trái, tới giáp Ngô Quyền thì chạy trở về trường. Có lẽ nhờ chơi nhiều môn thể thao lúc còn trẻ nên sau này khi được phục vụ tại các tỉnh, tôi có điều kiện thuận tiện chơi thêm hai môn khác nữa là tennis và trượt nước (ski nautique), giúp tôi gìn giử sức khỏe và trí tuệ đến ngày nay, còn đủ khả năng viết lách và tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh cho đất nước.

Đã nhắc đến các thầy cô khả kính mà không nói đến một vài đồng môn thân thiết là một thiếu sót. Trong suốt mấy năm học, mỗi lần lên lớp đều được chỉ định chổ ngồi theo thứ tự mẫu tự nên các bạn ngồi cùng bàn gặp nhau trở lại như những năm trước. Nào là Huỳnh Ngọc Anh, thuộc gia đình trung lưu, vừa ra trường thì được đi du học bên Pháp. Sau khi đổ tiến sĩ dược khoa, anh Anh về phục vụ đất nước, trước hết ở Bộ Y Tế, làm đến chức Tổng Giám Đốc. Kế tiếp là Đặng Tứ Bửu, con của một bác sĩ ở Cần Thơ, cũng sang Pháp du học về hàng hải, sau về nước phục vụ cho Hải Quân Công Xưởng. Tôi (Cẩn) ngồi giữa Bửu và Huỳnh Đăng Giai, bị một giáo sư gọi “bộ ba BCG” (tên tắt của một loại thuốc chích ngừa bệnh lao phổi). Cho tới nay, chúng tôi vẫn chưa rõ vì sao bị gán một biệt danh như vậy. Hồi xưa, học sinh rất sợ các thầy nên không dám hỏi lý do tại sao. Ra trường (năm 1947) được 6 năm thì tôi gặp trở lại anh Giai cùng trúng tuyển vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh với tôi. Nhiệm sở cuối cùng của Giai là Phó Tỉnh Trưởng Gia Định. Đến năm 1967, tôi được gặp trở lại anh Anh cùng đắc cử với tôi vào Hạ nghị viện đệ nhị cộng hòa. Một anh bạn khác là Cao Minh Thiện, học nhất lớp, vừa ra trường thì đi theo kháng chiến, hy sinh cho đất nước trong thời gian Khu 9 cách mạng ở miền Tây đánh Pháp “thất điên bát đảo”. Một anh bạn rất thân khác cùng lớp và ở trọ cạnh nhà tôi là anh Trần Văn Trọng viết nhạc từ lúc còn theo học Phan Thanh Giản Cần Thơ, về sau trở thành nhạc sĩ tài danh “Anh Việt” rất được đồng bào ngưỡng mộ. Năm 1951, tôi gặp lại anh Trọng trong bối cảnh bị động viên vào Khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức. Đến ngày mất nước, anh Trọng là đại tá đảm nhận chức vụ Cục trưởng Quân cụ QLVNCH.

Mỗi năm đến ngày đọc diễn văn chúc Tết thầy cô, học sinh chúng tôi góp tiền để tặng hoa và mua sắm bánh trái cùng nước ngọt để khoản đãi thầy cô và liên hoan trọn lớp. Đây là một cơ hội để tôi hát giúp vui với nhạc đệm của Anh Việt. Khi mới vào trung học thì những bài tôi thường hát gồm có “Làng tôi”, “Chùa Hương”, “Thiên Thai” hoặc Bến Cũ” của Anh Việt. Nhưng hai năm chót, cùng với cao trào yêu nước bùng cháy trong lòng người dân khai mào cho “cách mạng mủa thu”, sinh hoạt trong lớp học cũng thay đổi theo. Đơn ca được thay thế bằng đồng ca của cả lớp với những bản nhạc hùng yêu nước Chí Lăng và Bạch Đằng Giang nổi tiếng.



Chợ nổi Cần Thơ

Trong năm đồng môn vừa kể, bốn người đã quá vãng, chỉ trừ anh Giai là còn sống nhưng đang ở trong tình trạng tàn phế tại một “nursing home” của miền Đông Hoa Kỳ. Thời gian tàn phá vạn vật, kể cả con người, một cách khác nhau tùy theo định mệnh do Thượng Đế ban cho.

Riêng tôi rời Cần Thơ ở tuổi 20, lên Sài Gòn làm việc được vài tháng thì bị động viên vào Khóa 1 Thủ Đức. Sau khi giải ngũ vì lý do sức khỏe, tôi trúng tuyển vào Khóa 1 Học viện Quốc Gia Hành Chánh. Rồi thì một chuổi dài dấn thân trên đường phục vụ đất nước. Bước đi chập chững đầu tiên là cùng đồng bào quận Cái Bè (Định Tường) động viên nhân tài vật lực xã ấp đánh bại chiến tranh du kích của Cộng sản trong quận, tạo điều kiện để nhân dân địa phương vùng lên quản trị công việc điều hành quê hương của họ ở giai tầng xã ấp. Tôi lớn lên bên bờ Sông Hậu, phục vụ ở quận và tỉnh dọc theo Sông Tiền, Sông Vàm Cỏ và vàm sông Soái Rạp ở miền Nam. Tôi có cơ hội thăm viếng chiến sĩ và đồng bào từ Bến Hải đến Cà Mau cùng thu lượm kinh nghiệm để tìm phương thức đương đầu với thế chiến nhân dân do cộng sản Bắc Việt chủ trương để xích hóa miền Nam. Tôi được rèn luyện dưới thời đệ nhất và trưởng thành trong thời đệ nhị Cộng Hòa (1954-75), suốt 21 năm mà đồng bào miền Nam được hưởng đời sống tự do dân chủ nhất trong lịch sử nước nhà, tất nhiên hơn xa cả ngày nay dưới cái chế độ ngục tù được gọi là xã hội chủ nghĩa.

Một sự ngẫu nhiên trong đời phục vụ đất nước của tôi là dành chuyến kinh lý cuối cùng cho vùng Thủ Thừa Bến Lức, Long An, một tỉnh cũ tôi từng phục vụ, trước khi tôi từ chức chỉ huy hành chánh địa phương để ứng cử dân biểu Hạ nghị viện. Tháng 4 năm 1975. Cộng sản Bắc Việt vừa chiếm xong tuyến phòng thủ Phan Rang và đang chuyển quân áp lực Vùng 3 trong khi 2 sư đoàn chủ lực Bắc Việt đang tìm cách đánh bại Sư đoàn 18 bộ binh anh hùng của Quân Lực VNCH tại Long Khánh. Ngày 18 tháng 4, tôi đến thị sát mặt trận Thủ Thừa, nơi mà lực lượng địa phương quân của ta được tăng cường một trung đoàn của SĐ7BB chống trả mãnh liệt sức tấn công của 2 sư đoàn 5 và 8 của Việt Cộng với ý đồ cắt đứt quốc lộ 4 nối liền thủ đô với toàn thể các tỉnh miền Tây. Lúc bấy giờ, Sư đoàn 22 bộ binh từ miền Trung được tái phối trí về Bến Lức án ngữ cửa ngỏ miền Tây của đô thành. Cộng sản cũng vận dụng quân số cấp sư đoàn bao vây SĐ22BB để ngăn chận không cho tiếp cứu lực lượng ta tại Thủ Thừa.

Sau khi từ giã Thủ Thừa, trên đường bay lên Bến Lức viếng thăm SĐ22BB, tôi được thông báo Nam Vang đã rơi vào tay Khmer Đỏ và tin đau lòng là Hoàng thân Sirik Matak, Cố Vấn Chính Phủ và Tướng Long Boret, Thủ Tướng Kam Pu Chia đã bị lực lượng Pol Pot hạ sát. Số phận Kam Pu Chia và Việt Nam gắn liền nhau trong thế bất khả phân sau khi Hoa Kỳ đã bắt tay sống chung hòa bình với Trung Cộng và Nga Xô, và như vậy thì trong chính sách đối ngoại của cường quốc này không còn chổ đứng cho hai tiền đồn chống Cộng ở bán đảo Đông Dương nữa.

Thật bất hạnh cho dân tộc mình đã chọn lầm một đồng minh bất nghĩa.

Nguyễn Bá Cẩn

Cựu học sinh PTG Cần Thơ 1942-47
(Tháng 2, 2009)





CẦN THƠ, QUÊ HƯƠNG TÔI

Nguyễn Bá Cẩn

Đoàn học sinh tuổi trung bình từ 12 đến 18 đang diễn hành đều bước trên Lộ Mới là một trong những con đường nhộn nhịp nhất chạy từ trung tâm thành phố Cần Thơ đến sông Cái Khế. Con đường này, nay được gọi là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Cách đây 60 năm, người Pháp cai trị Đông Dương nên đã có thời kỳ con Lộ Mới này được đổi tên là Capitaine d'Hers, sau nữa đổi thành Phan Thanh Giản cho đến năm 1975. Nó chạy xuyên ngang một khu đông đúc gồm có trại gia binh và trường trung học Phan Thanh Giản ở phía Nam và khu gia cư ở phía Bắc lên đến tận sông Cái Khế. Cứ mỗi buổi chiều, đến giờ thể dục thì học sinh trung học tập đi diễn hành ngoài đường và ca ngợi nước Pháp với hai câu hát được Chính Phủ Pháp tung ra, “Maréchal! Nous voilà! Devant toi le sauveur de la France” (Thưa Thống Chế, vị cứu tinh của nước Pháp! Chúng tôi đang trình diện trước mặt Ngài!), để vinh danh Thống Chế Pétain, vị anh hùng của trận Verdun hồi thế chiến thứ I.

Năm 1941, khi Phát Xít Đức xâm chiếm các nước Âu Châu, trong đó có Pháp, Chánh Phủ Cộng Hòa Pháp kể cả Quốc Hội tự động giải tán. Quốc gia Pháp được thành lập tại miền Nam nước Pháp dưới quyền lãnh đạo của Thống Chế Pétain, chủ trương hợp tác với Phát Xít Đức để cứu vãn nước Pháp, ít lắm là theo lời tuyên bố của ông ta, trong lúc đại đa số người dân Pháp hướng về Thiếu Tướng De Gaulle, đang kêu gọi toàn quốc kháng chiến, từ Luân Đôn (Anh Quốc) là nơi ông đã thành lập Chính Phủ Pháp Tự Do và lãnh đạo cuộc chiến đánh đuổi Đức Quốc Xã để giải phóng nước Pháp.

Nhà tôi nghèo. Quê tôi là làng Phú Hữu, ở tận cực Nam của tỉnh Cần Thơ, cách tỉnh lỵ độ 18 cây số. Bên nội tôi sống bằng nghề nông. Trước năm 1945, xã Phú Hữu cũng như tất cả các xã khác, trừ xã tại quân lỵ, chỉ vỏn vẹn có một lớp Đồng Ấu để dạy trẻ con biết đọc và viết mà thôi. Với hoài bảo cho các con ăn học để tương lai được sáng sủa hơn là cứ miệt mài với ruộng vườn quanh năm suốt tháng mà không thoát cảnh nghèo nàn, ba mẹ tôi dời lên ở tỉnh lỵ Cần Thơ, cất nhà sát bên cạnh trường trung học Lộ Mới, tiện cho việc học hành của các con sau này.

Quê tôi nghèo. Bên nội tôi gồm khoảng 50 gia đình thuộc ba bốn thế hệ chia nhau chiếm trọn con Kinh Nhỏ là nơi phát nguồn của Rạch Mái Dầm giáp ranh với tỉnh Sóc Trăng. Toàn dân trong xã làm ruộng, hết mùa lúa ở quê nhà thì rủ nhau bơi xuồng xuống Ba Xuyên gặt lúa để kiếm thêm chút đỉnh, hoặc bằng tiền hoặc bằng hiện vật là lúa để tăng cường lợi tức thấp kém của mình. Lúc bấy giờ trong nước chỉ làm ruộng một mùa. Người nào siêng năng cần cù thì trồng thêm vài luống khoai hoặc bắp, kiếm thêm thức ăn độn cho gia đình. Nông thôn ta lúc bất giờ chưa biết làm lúa hai mùa hoặc trồng rẫy qui mô để sinh lợi. Sau khi gặt hái, còn lại nửa năm không biết làm gì nên dân làng thường tổ chức cờ bạc và đá gà.

Đất nước tôi nghèo, nghèo lắm. Hơn 90 phần trăm nhân dân sống lam lũ ở nông thôn. Ngoại trừ một thiểu số làm công chức và nghề tiểu công nghệ hoặc tiểu thương, đa số quần chúng sống trong cảnh nghèo đói theo định nghĩa “nghèo đói” của Liên Hiệp Quốc ngày nay. Nước nghèo lại gặp cảnh thế chiến. Gạo thừa thải chút đỉnh nhưng xuất cảng không được. Ngoài ra, Pháp và Nhật tung đòn đánh phá nhau về kinh tế gây nạn đói ở Bắc Việt chết hàng triệu người. Có đủ gạo thì ăn cơm, thiếu gạo thì phải độn khoai cho đỡ đói, và đừng mong mua được đồ biến chế ngoại quốc vì các phe lâm chiến phong tỏa khắp các mặt biển và hải trình.



Cần Thơ, quê hương hiền hòa

Trong trọn tỉnh lỵ Cần Thơ, tôi chỉ thấy một chiếc xe hơi của Chánh Tham Biện tức Tỉnh Trưởng người Pháp. Lúc bấy giờ, thế giới chưa có máy lạnh (air conditioner), và máy truyền hình. Tôi cũng chỉ thấy có một tủ lạnh (refrigerator) nơi tư thất của một trong 10 gia đình giàu nhất ở chợ Cần Thơ. Ngoài ra, từ trường trung học cho đến sông Cái Khế, trọn một khu gia cư dọc theo đại lộ Phan Thanh Giản gồm có cả trăm gia đình mà chỉ có nhà ông giáo Chưởng, thầy dạy tôi lớp vỡ lòng tại trường tiểu học tỉnh lỵ, là có một cái máy phát thanh duy nhất. Chiều chủ nhật nào, Lộ Mới cũng đông nghẹt nơi đây vì lối xóm ngồi chiếm nửa mặt lộ trước nhà ông giáo này để nghe Huyền Vũ tường thuật các trận túc cầu quốc tế ở Sài Gòn.

Anh cả của tôi dạy học, lương khoảng 100 đồng bạc Đông Dương. Một người anh khác làm thợ máy cho Công Chánh, lương khoảng 70 đồng. Từng ấy lợi tức giúp má tôi nuôi một gia đình gồm má tôi và 8 anh em. Cho đến khi học năm thứ ba trung học, tôi vẫn còn mặc bà ba và mang guốc cây để đi học như 90 phần trăm bạn bè cùng trường. Một vài học sinh giàu mới mua sắm được “sơ mi” và quần tây ngắn. Ngay cả giáo sư trung học và các công chức cũng đều mặc quần ngắn, lý do là vì hằng 4, 5 năm kể từ ngày thế chiến bùng nổ, không có nhập cảng hàng vải được nữa. Công tư chức mới mua được một chiếc xe đạp để đi làm và dùng cho mọi cuộc di chuyển khác sau giờ làm việc hoặc cuối tuần. Trong lớp học của tôi chỉ có một học sinh duy nhất là anh Lê Đình Thêm, em vợ kỹ sư Phan Khắc Sửu (sau cuộc Cách Mạng và Chỉnh Lý, đảm nhận vai trò Quốc Trưởng Việt Nam), mới có xe đạp. Toàn dân mang guốc cuốc bộ. Cho đến đường cát, sữa đặc và diêm quẹt cũng phải đến Quận Châu Thành hoặc Tòa Hành Chánh Tỉnh xin phiếu mua dùng. Nêu lên một vài cảnh sinh hoạt kinh tế tại tỉnh lỵ mỹ miều Cần Thơ để biết mức độ nghèo khổ của quê hương yêu dấu trước 1945.

Tại tỉnh lỵ thì còn thấy người dân ăn no mặc ấm. Nhưng khi đi sâu vào nông thôn như tôi năm nào cũng sống hai tháng hè tại quê nội, là nơi mà 90 phần trăm dân ta sinh sống, thì cảnh nghèo khó biến thành bần cùng. Đa số nhân dân ăn mặc rách rưới. Vì không có vải nhập cảng nên đã bắt đầu thấy “vải ta” xuất hiện, mình vải hết sức thô vì được dệt bằng bông vải nội địa và dệt bằng tay theo lối tiểu công nghệ. Nhiều gia đình nghèo không mua nổi vải, phải may quần áo bằng bố tời (loại bao bố chỉ gai màu xám lợt để làm bao đựng lúa hoặc đựng gạo). Chính mắt tôi chứng kiến nhiều gia đình nghèo đến nỗi chỉ mua sắm được có một bộ quần áo, dù là bằng bố tời. Khi có việc phải ra khỏi nhà thì vợ hoặc chồng mới dùng đến bộ quần áo duy nhất đó. Ở thôn quê chí rận nhiều, vì vừa nghèo vừa thiếu điều kiện vệ sinh. Cho nên trước khi mặc quần áo bằng bố thì phải trải trên mặt phản và lấy ve chai loại 1 lít, đè thật mạnh và lăn qua lăn lại để giết chí rận, đè nát lên bọn chúng, tiếng nghe “răng rắc”.

Đó là thực tế đời sống ở miền Nam trước khi thế chiến II chấm dứt. Những mỹ từ thường được dùng như “Hòn Ngọc Viễn Đông” để ám chỉ Sài Gòn, bao lơn Thái Bình Dương khi nói đến Việt Nam, và “Tây Đô bên bờ sông Hậu” cũng chỉ nhằm an ủi niềm đau khổ thấp hèn của người dân thuộc địa mà thôi. Có lẽ độc giả thắc mắc tại sao ai cũng nói miền Nam Việt Nam, nhất là miền Tây là một vùng giàu có nhất trong nước, thế mà tại sao tôi lại mô tả đen tối đến thế.

Miền Tây Việt Nam còn được gọi là Hậu Giang chỉ có lúa ruộng. Phần lớn đất đai do người Pháp khai khẩn, như tại Cần Thơ có một số đồn điền người Pháp canh tác ruộng lúa tại những vùng Thới Lai, Cờ Đỏ và miệt kinh xáng như Kinh Bảy Ngàn. Nếu không ở trong tay của Pháp thì cũng ở trong tay của Hoa Kiều vốn dĩ có nhiều vốn liếng lại còn được hưởng đặc quyền đặc lợi thụ đắc qua các hiệp ước ký kết với Triều Thanh trong tinh thần Pháp Hoa lưỡng lợi, chia sẽ miếng mồi thuộc địa. Có một số chủ điền Việt Nam có từ năm, mười cho đến vài trăm mẫu ruộng do hai ba đời cần cù làm lụng tiết kiệm để tậu mãi. Còn lại đa số là tiểu điền chủ có từ một vài sào cho đến một hai mẫu ruộng là cùng. Gặt hái xong được vài chục hoặc vài trăm giạ lúa, một số để dành làm giống cho mùa sau, còn lại để ăn trong năm, thiếu trước hụt sau. Đại đa số người dân trong xã không có ruộng phải xin thuê ruộng để canh tác, được gọi là tá điền, lại còn nghèo hơn tiểu điền chủ hai ba bậc. Trong đại đa số này có một số khá đông không thuê được ruộng thì đi làm công cho chủ điền, từ công việc cày bừa, gieo cấy cho đến khi gặt hái, được trả “lương chết đói” bằng hiện vật là lúa.

Đừng đánh giá Hậu Giang giàu sang khi nhìn thấy một số đại điền chủ người Việt hoặc Minh Hương (Việt lai Tàu) sinh sống thảnh thơi hoặc khi đọc truyện các công tử Bạc Liêu phung phí tài sản trong đó có Cậu Ba Qui con của một đại điền chủ giàu khét tiếng miền Tây, mỗi cuối tuần tự lái máy bay riêng lên Sài Gòn khiêu vũ trác táng với gái “hạng sang” tột bực, đến chiều thứ hai mới lái về nhà. Do đó, mỗi chiều thứ hai, trẻ con chúng tôi ở Lộ Mới thường tụ tập để đón xem máy bay của “Cậu Ba” bay ngang tỉnh lỵ, trên đường về Bạc Liêu.

Trong thời gian thế chiến II, Toàn Quyền Pháp tại Đông Dương không theo đường lối của nước Pháp Tự Do do De Gaulle lãnh đạo, mà lại nghiêng về Chính Phủ Vichy, tức là chính phủ hợp tác với phe Trục (Đức/Ý/Nhật) ngỡ mong được Nhật Bản để yên. Hy vọng này trở nên hão huyền vì ngày 9/3/1945, Nhật Bản đảo chính Đông Dương để làm bàn đạp tiến chiếm Mã Lai và Singapore. Chính Phủ Trần Trọng Kim ra đời, rồi tiếp đến “Cách Mạng Mùa Thu”, Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị để làm công dân một nước độc lập. Từ trước năm 1944, Đảng Cộng Sản Đông Dương, với một số cán bộ nòng cốt được huấn luyện tại Moscow về đấu tranh giai cấp và cách mạng lật đổ chính quyền, đã biết lợi dụng thời cơ tổ chức kháng chiến đánh phá Nhật Bản, mục đích là mua lòng Trung Hoa và Hoa Kỳ để được viện trợ vũ khí của hai nước này hầu phát triển lực lượng võ trang của họ. Cộng Sản đã lấn lướt các phe phái Quốc Gia trên bình diện chính trị và ngoại giao.

Về nội bộ thì Cộng Sản sẵn có cái vốn kỹ thuật xách động quần chúng đấu tranh nên đã chiếm ưu thế lãnh đạo trong các tổ chức cứu quốc như Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc và sau đó là Cộng Sản liên minh với Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội của Nguyễn Hải Thần, Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh và Đại Việt Dân Chính của Nguyễn Tường Tam. Đến khi Nhật Bản đầu hàng và Chánh Phủ Trần Trọng Kim từ chức, thì thời thế đã chín muồi cho Cộng Sản Hồ Chí Minh phát động quần chúng biểu tình áp lực Bảo Đại và dư luận toàn quốc phải để cho Việt Minh thành lập chính phủ. Cộng Sản vừa có kế hoạch, vừa có cán bộ cuồng nhiệt và liều lĩnh để thực thi kế hoạch, nên ngày 17/8/1945, bọn chúng đã biến cuộc biểu tình tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, thay vì để ủng hộ Chính Phủ Trần Trọng Kim, thành ủng hộ Việt Minh và bất thần cho cán bộ đến chiếm Tòa Công Sứ một cách dễ dàng.

Tại Sài Gòn cũng vậy, trong lúc cán bộ Cộng Sản do Moscow đào tạo Trần Văn Giàu thuyết phục Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất gồm có Đại Việt, Cao Đài và Hòa Hảo gia nhập VNĐLĐMH để giải phóng đất nước thì được tin Bảo Đại mời Việt Minh thành lập chính phủ. Do đó mà Mặt Trận tuyên bố giải tán để trở thành Ủy Ban Lâm Thời Nam Bộ do Trần Văn Giàu cầm đầu. Cứ như thế mà Cộng Sản nhờ núp dưới chiêu bài Việt Minh kháng chiến lần lượt tiếm thâu quyền hành từ Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các tỉnh trong toàn quốc. Tại Nam Kỳ, lúc bấy giờ Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ sáng lập thu hút hàng triệu tín đồ. PGHH chủ trương “hành Đạo giúp Đời” và đặt Ân Đất Nước lên hàng đầu trong Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Do đó các tôn giáo khác, các chánh đảng và đoàn thể yêu nước qui tụ lại thành Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp do Đức Thầy lãnh đạo với sứ mệnh đánh đuổi Pháp để tranh thủ độc lập cho nước nhà.

Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ của Việt Minh là đảng viên Cộng Sản Trần Văn Giàu lo ngại uy thế của Đức Thầy và Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp. Sẵn dịp ngày 8 tháng 9 năm 1945, lãnh tụ PGHH Năm Lửa ở miền Tây tổ chức biểu tình hàng ngàn người tại Cần Thơ để kêu gọi nhân dân ủng hộ Chính Phủ Việt Minh và yêu cầu võ trang quần chúng để chống xâm lăng, Trần Văn Giàu chụp mũ Hòa Hảo nổi loạn để đàn áp cuộc biểu tình và bắt giữ một số tín đồ PGHH, mặc dù cuộc biểu tình đã được thông báo trước cho nhà cầm quyền địa phương. Ngày hôm sau, tức ngày 9 tháng 9, Trần Văn Giàu cho Quốc Gia Tự Vệ Cuộc bao vây trụ sở PGHH tại Sài Gòn để lùng bắt Đức Thầy nhưng Đức Thầy thoát nạn.

Thế chiến thứ II vừa chấm dứt thì Chính Phủ Pháp do De Gaulle lãnh đạo mang quân qua tái chiếm thuộc địa cũ là Nam Kỳ. Tuy Việt Minh chưa ra lệnh “Tiêu thổ kháng chiến”, nhưng chỉ thị dân chúng thi hành chánh sách “Vườn không nhà trống”, bỏ trống thành thị tản cư về quê.. Quân đội Pháp sau khi chiếm xong Sài Gòn đang chuẩn bị tiến đánh các tỉnh. Trước khi chiến cuộc lan tràn đến tỉnh nhà, mẹ tôi hướng dẫn trọn gia đình di tản bằng đường thủy về quê ngoại tại quận lỵ Tam Bình thuộc tỉnh Vĩnh Long. Gia đình chúng tôi chỉ kịp mang theo quần áo và mùng mền, bỏ lại tất cả tài sản, khóa cửa nhà lại để xuống ghe từ chợ Cần Thơ theo sông Cửu Long xuôi miền Nam đến Trà Ôn rồi nương theo kinh đào đến quận Tam Bình. Ghe vừa đến ngang quận lỵ thì thấy dân chúng tập họp đông đảo khác thường tại cầu tàu. Đến khi lại gần thì chứng kiến một cảnh tượng hãi hùng. Trên cầu tàu, một người tuổi độ tứ tuần bị lột áo để mình trần, đang bị cán bộ Cộng Sản hành quyết bằng cách mỗ bụng vì tội đàn áp phong trào “Nam Kỳ Khởi Nghĩa” của Cộng Sản trước đó vài năm. Nạn nhân là một cựu Chánh Tổng trước kia có cộng tác với cơ quan an ninh của chính quyền Pháp ruồng bắt cán bộ Cộng Sản tổ chức khá đông tại Tam Bình. Một hai tuần sau đó, tôi có dịp chứng kiến một loạt hành quyết khác tại các xã xung quanh quận lỵ. Khác với lần đầu mỗ bụng, các lần sau Cộng Sản chặt đầu các nạn nhơn bằng mã tấu. Thì ra, thay vì dùng súng, Cộng Sản cố tình dùng những phương pháp rùng rợn hơn như chặt đầu và mỗ bụng moi gan để gây khiếp đảm và khủng bố tinh thần dân chúng.

Tạm trú tại Tam Bình độ một tháng thì được tin quân đội Pháp tiến đánh Vĩnh Long nên gia đình tôi lại phải xuống ghe đi qua xã Phú Hữu phía cực Nam của tỉnh Cần Thơ. Gia đình tôi tạm trú tại nhà bà nội tôi ở ấp Kinh Nhỏ. Bà ở một mình trong một căn nhà ba gian, khá lớn. Gian giữa có bàn thờ tổ tiên, cùng một bộ tràng kỷ gõ đen, cẩn ốc xa cừ để tiếp khách. Hai bộ phản bằng ván gõ dầy 1 tấc chiếm phía trước hai gian bìa, còn phía sau thì hai phòng ngủ có cửa gài khóa lại. Phía sau bề ngang rộng ba gian dùng làm kho, sát vách hè có 10 mái đầm (lu cỡ thật lớn ở miền Tây), 5 mái chứa nước mưa để uống quanh năm, 5 mái còn lại đựng lúa giống để gieo mạ mùa lúa tới.

Sở dĩ nhà nội tôi có phần khá hơn bà con trong xóm vì khi sanh tiền, ông nội tôi bao tá được vài chục mẫu ruộng. Sau khi ông qua đời, bà tôi chỉ còn giữ lại ngôi nhà, còn lợi tức cũng chỉ đủ sống đấp đổi qua ngày như đa số bà con nghèo khác. Hai anh tôi mỗi người được Ủy Ban Kháng Hành Tỉnh (Kháng chiến Hành chánh) phát cho hai tháng lương. Mẹ tôi rất tiện tặn vì dự trù có thể tản cư cả năm thì phải lo kinh tế tự túc chớ đâu thể ỷ lại vào hai tháng lương này được. Lớn nhỏ đều đổ ra đồng làm rẫy, hàng ngang hàng dọc. Nào là dọc theo mương thì thả giàn trồng bầu, bí đao, mướp, dưa leo, khổ qua, v.v.. Tận dụng các khoảng đất trống xung quanh nhà để trồng các loại đậu xanh, đỏ, đen, cùng bí rợ, và các loại cải trắng, cải xanh, cải rổ, v.v.. Ngoài công việc trồng trọt, còn phải nghĩ đến thịt, cá để tăng cường dinh dưỡng. Tôi và người anh thứ tư của tôi tổ chức giăng câu, thả chà dưới sông, đặt lọp, lưới cá, mò tôm, v.v.. Các em nhỏ tôi thì chăn nuôi, săn sóc các bầy gà vịt, lượm trứng, cho ấp nở các bầy khác, Gia đình chúng tôi ít được dùng gà vịt vì phải dành để đổi lấy gạo, đường, nước mắm, và các loại vật dụng khác mỗi khi có “ghe hàng” thổi “tù và” báo cho đồng bào trong xóm đến đổi chác cho nhanh vì ghe còn phải qua các làng khác.



Vựa Lúa Miền Nam

Chỉ tại vùng đồng bằng Cửu Long ở Miền Tây là câu tục ngữ “trời sinh voi sinh cỏ” có ý nghĩa nhất. Đừng có lo. Đến mùa mưa lúa lớn mạnh như thổi cùng với tôm cá sinh sản tràn đồng. Kịp đến ruộng khô không còn tôm cá nữa thì đến mùa lúa chín, là mùa chim và chuột ăn lúa chín mập tròn. Còn rắn thì nhờ bắt được nhiều chuột hơn trước nên cũng to béo hẳn lên. Chim thì “rô-ti”, rắn thì nấu cháo đậu xanh. Thịt chim hay rắn đều có thể bầm nhỏ xào củ hành xúc bánh tráng, lớn nhỏ đều ưa thích. Chuột thì thui rồi lột da, vứt bỏ đồ lòng, giữ lại mỡ sa để thắng thành dầu thắp đèn ban đêm. Thân chuột banh ra mập trắng như heo sữa bày bán ở các sạp thịt nhà lồng chợ. Món anh em tôi thích nhất là chuột ớp sả ớt, kẹp nướng than hồng, ăn với cơm trắng và nước mắm tỏi ớt. Tuy nhiên, trong các tháng nước kém, cạn lòi lòng sông, cá tôm hoàn toàn biến mất. Chuột rắn cũng không còn. Nhiều hôm không tìm được gì thì lấy nước mắm kho sệt lại để ăn với rau luộc. Có sống ở nông thôn mới biết nước mình nghèo. Có chia sẻ cọng rau hột muối với nông dân mới thương dân mình nghèo, dân mình đói

Nguyễn Bá Cẩn



VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VỊ THỦ TƯỚNG CUỐI CÙNG
CỦA VNCH VỪA TỪ TRẦN

• Theo HẠNH DƯƠNG, Vietastic.com

SAU KHI VỪA ĐĂNG KÝ THỀM LỤC ĐỊA VNCH VÀ PHÊ BÌNH HỒ SƠ ĐĂNG KÝ CỦA CSBV,
CỰU THỦ TƯỚNG CUỐI CÙNG CỦA VNCH NGUYỄN BÁ CẨN ĐÃ VĨNH BIỆT CỘNG ĐỒNG.

Trước tin buồn cựu Thủ Tướng VNCH NGUYỄN BÁ CẨN vừa đột ngột từ trần khoảng lúc 3:20AM - 3:30AM ngày Thứ Tư 20-5-2009 nhằm ngày 26 tháng 4 năm Kỷ Sửu, hưởng Thọ 79 tuổi; chúng tôi thay mặt Nhật Báo Việt Báo Bắc California, hãng Thông Tấn VietPress USA và Website Vietastic.com, xin thành kính phân ưu cùng cựu Thủ Tướng Phu Nhân và Tang Quyến; cũng như xin chia buồn đến cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ và khắp hải ngoại về sự mất mát lớn lao nầy.

San Jose (Vietastic.com): Cựu Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn, sau khi hoàn thành thủ tục đệ nạp hồ sơ về Thềm Lục Địa Việt Nam cho Liên Hiệp Quốc hôm 11-5-2009, và phê bình hồ sơ của CSVN là bỏ ngõ hải phận có thể giúp cho Trung Cộng thôn tính thêm lãnh hải và các quần đảo Việt Nam, đã vừa đột ngột từ trần vào khoảng 3:20AM đến 3:30AM ngày Thứ Tư 20-5-2009 nhằm ngày 26 tháng 4 năm Kỷ Sửu.

Chánh văn phòng của cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn là ông Võ Duy Thường cho ký giả Hạnh Dương biết rằng, trong liên tiếp mấy tháng qua, cựu Thủ Tướng đã làm việc quá nhiều và rất căng thẳng để hoàn tất hồ sơ đăng ký Thềm Lục Địa VNCH và đã đệ nạp cho Liên Hiệp Quốc hôm 11-5-2009 vừa qua trước thời hạn quy định 13-5-2009. Trong chiều Chủ Nhật 17-5-2009, cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã đến tham dự Đại Nhạc Hội "Cám Ơn Anh - Người TPB/VNCH - Kỳ 3" được tổ chức tại San Jose.

Có lẽ do làm việc quá nhiều, quá mệt nên đêm Thứ Ba rạng ngày Thứ Tư 20-5-2009 ông cho vợ ông biết là ông cảm thấy đau ran ở ngực và khó thở. Lúc đó khoảng hơn 3:00AM rạng sáng 20-5-2009. Người nhà gọi xe cấp cứu 911 đến đưa ông vào bệnh viện Regional Medical Center trên đường Jackson, San Jose thì ông đã tắt thở trong khoảng 3:20AM đến 3:30AM. Hiện thi thể ông đang được quàn tại bệnh viên Regional Medical Center để làm các thủ tục và gia đình cùng các đoàn thể VNCH đang họp để lo tổ chức tang lễ phủ cờ VNCH cho cố Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn. Chương trình tang lễ và nghi thức tẩm liệm sẽ được công bố vào ngày Thứ Năm và sẽ chuyển Linh cửu về quàn tại Nghĩa Trang Oakhill, San Jose vào sáng Thứ Bảỷ 23-5-2009. Mọi chi tiết xin liên lạc Chánh Văn Phòng Võ Duy Thưởng Tel. 408-396-0120. Email: [email protected].



Ông NGUYỄN BÁ CẨN là con của một gia đình nông dân, sinh ngày 09-9-1930 tại tỉnh lỵ Cần Thơ thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Ông bị gọi động viên vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 1 năm 1951. Sau khi giải ngủ, ông được chấm đậu trong kỳ thi tuyển vào khóa 1 Học Viện Quốc Gia Hành Chánh tại Sài-gòn cuối năm 1953, nhập học đầu năm 1954 và tốt nghiệp thủ khoa vào năm 1957 rồi được bổ nhiệm về Tòa Hành Chánh tỉnh Định Tường.

Là một viên chức hành chánh cần mẫn, ông được chế độ Đệ I Cộng Hòa bổ nhiệm làm Quận Trưởng Cái Bè vào năm 1958. Chỉ một năm sau, ông được thăng chức Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh tỉnh Định Tường vào năm 1959. Qua năm 1962, ông được chuyển về làm Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh tỉnh Phước Tuy (Vũng Tàu, Bà Rịa ngày nay). Đến năm 1964 ông được chuyển về làm Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh tỉnh Long An nằm sát cạnh Sài-gòn.

Năm 1967, ông Nguyễn Bá Cẩn đắc cử Dân Biểu pháp nhiệm I của nền Đệ II Cộng Hòa thuộc đơn vị tỉnh Định Tường và đã được các Dân biểu đồng viện bầu vào chức vụ Đệ II Phó Chủ Tịch Hạ Viện VNCH.

Vào cuối năm 1967, ông Nguyễn Bá Cẩn đã cùng Nghị Sĩ Đặng Văn Sung thuộc Liên danh Nông Công Binh tại Thượng Nghị Viện thành lập Liên Khối Dân Chủ Xã Hội lưỡng viện Quốc Hội VNCH. Năm 1969, ông Nguyễn Bá Cẩn liên kết với Nghị sĩ Đặng Văn Sung và ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam, để thành lập Đảng Công Nông Việt Nam. Ông Trần Quốc Bửu làm Chủ Tịch Đảng, còn ông Nguyễn Bá Cẩn giữ chức vụ Tổng Bí Thư Đảng Công Nông Việt Nam.

Vào nhiệm kỳ II của Hạ Viện từ 1971-1975, ông Nguyễn Bá Cẩn tái đắc cử Dân Biểu cũng tại đơn vị tỉnh Định Tường. Các Dân biểu đồng viện đã nhất loạt bầu ông làm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện VNCH suốt nhiệm kỳ II cho đến tháng 4/1975 khi ông ra đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng VNCH trong giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Miền Nam Việt Nam.

Cuối tháng 3/1975, khi Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đã tiến chiếm một số khu vực tại Miền Trung, Cao nguyên Việt Nam, Hoa Kỳ đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ sâu rộng thành phần chính phủ để ổn định nội tình Miền Nam và có đủ sức mạnh để đối thoại với CSBV. Do đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã mời ông Nguyễn Bá Cẩn ra nắm chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ VNCH vì tin tưởng rằng ông là người liêm khiết và có lập trường quốc gia chống Cộng kiên định.





Tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn (bên trái) ký nhận bàn giao chức vụ Thủ Tướng VNCH từ cựu Thủ Tướng là Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (phải) vào ngày 14-4-1975. (Ảnh tài liệu của Hạnh Dương).



Đầu tháng 4/1975 ông Nguyễn Bá Cẩn mới nhận lời làm Thủ Tướng VNCH và cho lập tân nội các, trình diện Nội Các vào ngày 14-4-1975. Chức vụ Chủ Tịch Hạ Viện VNCH được trao lại cho Dân Biểu Phạm Văn Út. Trong khi Nghị Sĩ Trần Văn Lắm vẫn giữ chức Chủ Tịch Thượng Nghị Viện VNCH. Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện vẫn là ông Thẩm Phán Trần Văn Linh.

Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn bổ nhiệm Trung Tướng Trần Văn Đôn làm Phó Thủ Tướng đặc trách Quốc Phòng; Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng, đang là Tổng Trưởng Công Chánh, làm Phó Thủ Tướng phụ trách Di Dân Định Cư; và Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo làm Phó Thủ Tướng đặc trách Kinh Tế Tài Chánh.

Mặc dầu từng làm Quận Trưởng và Phó Tỉnh Trưởng dưới thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và sau đó làm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện VNCH dưới thời Đệ II Cộng Hòa, nhưng ông Nguyễn Bá Cẩn và gia đình cũng chỉ sống một cuộc sống thanh bạch tại một căn phố nghèo bên cạnh một đống rác trên đường Nguyễn Hữu Thoại phía sau lưng Chợ Thị Nghè. Hạ Viện VNCH có cấp cho ông một biệt thự làm tư dinh tại đường Pasteur, quận I Sài-gòn; nhưng ông từ chối đến ở, mà chỉ dùng làm nơi tiếp khách khi cần thiết mà thôi. Đến khi ông lên làm Thủ Tướng Chính Phủ VNCH thì Tổng Nha Cảnh Sát đã yêu cầu ông và gia đình phải đến ở tại Dinh Thủ Thướng số 5 đường Bạch Đằng. Quận 1, Sài-gòn và ông nói rằng "trong những giờ phút cuối cùng của lịch sử VNCH, tôi gần như làm việc 20 giờ trên 24 giờ mỗi ngày... có khi thức trắng đêm !".





Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn trình diện tân Nội Các lên TT Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập vào ngày 14-4-1975. (Ảnh tài liệu của Hạnh Dương).



Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Hạnh Dương của Việt Báo trước khi ông cho xuất bản cuốn Hồi Ký của ông, cựu Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn nói rằng: "Vấn đề Việt Nam lúc bấy giờ là một ván bài chung của Hoa kỳ và Pháp. Họ đã nhúng tay vào và đã sắp đặt tất cả. Họ buộc chúng ta phải đầu hàng, phải bàn giao nguyên trạng.. Ngày 21-4-1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức, theo Hiến Pháp, ông đã bàn giao cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên làm Tổng Thống. Ngày 25-4-1975 tôi từ chức Thủ Tướng VNCH, nhưng Tổng Thống Trần Văn Hương yêu cầu tôi phải ở lại tiếp tục xử lý thường vụ cho đến ngày 28-4-1975 để chờ tân chính phủ."

Nguyên Thủ Thướng Nguyễn Bá Cẩn kể : “Sáng ngày 27-4-1975, tôi dự phiên họp khẩn cấp và kín với Tổng Thống Trần Văn Hương tại tư dinh dành cho Phó Tổng Thống để thảo luận về việc Hoa Kỳ, Pháp và Cộng Sản BV buộc phải bàn giao cho Tướng Dương Văn Minh. Tôi đã trình Tổng Thống Trần Văn Hương rằng nếu Tổng Thống tự động bàn giao cho Tướng Minh thì sau nầy ngàn đời lịch sử sẽ oán trách Tổng Thống ! Tôi đề nghị Tổng Thống Trần Văn Hương là nên trao lại quyền cho Lưỡng Viện Quốc Hội quyết định. Nếu Quốc Hội đồng ý cho bàn giao thì Tổng Thống sẽ bàn giao cho ông Dương Văn Minh và như thế Tổng Thống tránh được hành động vi hiến.”





Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn đang giới thiệu các thành viên trong Tân Nội Các lên Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 14-4-1975. (Ảnh tài liệu của Hạnh Dương).



Về những phút cuối của giờ thứ 25 trong lịch sử VNCH, vị Thủ Tướng cuối cùng của VNCH kể với ký giả Hạnh Dương rằng “Phiên họp kết thúc lúc 12:00 giờ trưa. Tôi vừa trở về đến Dinh Thủ Tướng vào lúc 12:15 giờ trưa thì Đại sứ Martin của Hoa Kỳ đã gọi điện thoại nói với tôi rằng “Đêm 26-4-1975 Cộng Sản Bắc Việt bắn hỏa tiễn vào trung tâm Sài-gòn là để cảnh cáo mà thôi. Nay CSBV đã dàn sẵn 20 Sư Đoàn quanh Sài-gòn rồi và Bắc Việt đòi buộc phải bàn giao chức Tổng Thống cho ông Dương Văn Minh .. bất cứ người nào khác đều không được chấp thuận và buộc phải bàn giao trước 12:00 giờ khuya ngày 27-4-1975 nếu không thì Bắc Việt sẽ pháo kích bình địa Sài-gòn. Vậy xin Thủ Tướng hãy giúp Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm triệu tập phiên họp Lưỡng viện Quốc Hội khẩn cấp.”

Điều khó khăn nhất là triệu tập một phiên khoáng đại lưỡng viện Quốc Hội, ít ra mất 1 tuần lễ thì văn phòng Quốc Hội mới tống đạt được văn thư triệu tập. Việc nầy cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn kể tiếp với ký giả Hạnh Dương rằng: "Tôi đã chỉ thị cho hệ thống Truyền Thanh và Truyền Hình Sài gòn cứ phát nhạc hùng và vài phút đọc lệnh triệu tập lưỡng viện Quốc Hội một cách khẩn cấp. Nhờ đó mà đêm 27-4-1975 có đủ túc số hợp lệ, tức là quá bán tổng số 159 vị Dân Biểu và 60 vị Nghị Sĩ đã họp mặt để quyết định có đồng ý hay không việc trao quyền hành cho Tướng Dương Văn Minh theo như CSBV đã yêu cầu, nếu không thì Sài-gòn sẽ bị tấn công bình địa. Lưỡng viện Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận và chiều ngày 28-4-1975 thì Tổng Thống Trần Văn Hương đã trao lại chức vụ Tổng Thống cho cựu Đại Tướng Dương Văn Minh.”

Đại sứ Hoa Kỳ Martin kêu gọi Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn nên cấp tốc rời khỏi Việt Nam để bảo toàn tính mạng. Sau khi biết TT Nguyễn Văn Thiệu và các vị cao cấp khác đã rời khỏi Việt Nam, lúc đó Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã cho vợ và con gái của ông lên chuyến bay Air France cuối cùng đi qua Paris nơi mà em vợ của ông là một Đại Tá trong Không Lực của Pháp đang chờ đón gia đình ông.





Tân Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn (hàng đầu bên trái) và các thành viên trong Tân Nội Các (đứng sau lưng bên cánh trái) chụp chung với cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm (hàng đầu bên phải) và các thành viên trong Nội Các cũ vừa giải thể (đứng sau lưng bên cánh phải). (Ảnh tài liệu của Hạnh Dương)



Mặc dầu bị CSBV bủa vây áp lực và Đại sứ Martin của Hoa Kỳ thúc đẩy phải bàn giao, nhưng cựu Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn nói với ký giả Hạnh Dương rằng: “Tôi nhất định từ chối không bàn giao chức vụ Thủ Tướng cho ông Vũ Văn Mẫu !". Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn kể rằng lúc đó ông đã gọi điện thoại cho Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ vào khoảng 02:00 giờ sáng ngày 28-4-1975 để đề nghị thu xếp phương tiện cho ông rời khỏi Việt Nam theo khuyến cáo của Đại Sứ Martin. Tòa Đại Sứ HK nói không còn máy bay riêng như đã hứa trước đây, và mời ông đến ngay để lên trực thăng ra phi trường Tân Sơn Nhất. Chỉ mấy phút sau, Chánh Võ Phòng là Đại Tá Trần Ngọc Nguyên đã lái xe trong giờ giới nghiêm đưa Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đến Tòa Đại Sứ Mỹ để từ đó đi trực thăng Mỹ ra phi trường Tân Sơn Nhất rồi đáp máy bay C130 của quân đội Hoa Kỳ bay qua Phi-Luật-Tân. Trên chuyến bay nầy có các ông Hoàng Đức Nhã, là cháu gọi TT Thiệu bằng Cậu Ruột, nguyên là Tổng Ủy Trưởng Dân Vận Chiêu Hồi; và ông Phan Quang Đán, nguyên Phó Thủ Tướng, cùng đi chung. Đến Phi-Luật-Tân, cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn được chuyển lên phi cơ phản lực của quân đội Hoa Kỳ để đi qua căn cứ quân sự Mỹ ở đảo Guam rồi bay chuyển tiếp đến căn cứ Hickey của Mỹ ở Honolulu và cuối cùng bay đến Travis Air Force Base của Mỹ ở Sacramento là nơi ông có đứa con trai đầu và con gái thứ nhì đang du học tại đó. Trên đường đi tỵ nạn, ông được xem là người may mắn còn được phía Hoa Kỳ đưa đón trang trọng. Đến mỗi căn cứ Không quân Hoa kỳ đều có vị Tướng chỉ huy căn cứ ra tận phi cơ rước ông vào phòng khách thăm hỏi niềm nỡ. Mấy ngày sau khi đến Sacramento thì Hoa Kỳ cho phép vợ và con gái của ông từ Paris sang San Francisco đoàn tụ với ông.

ĐỜI TỴ NẠN TẠI HOA KỲ:

Về cuộc sống mới tại Hoa Kỳ, ông Nguyễn Bá Cẩn, vị Thủ Tướng cuối cùng của VNCH kể với ký giả Hạnh Dương rằng “Lúc qua đến Hoa Kỳ thì tôi chỉ có võn vẹn 1,000 Mỹ-kim tiền dằn túi mà thôi ! May mắn là vợ tôi có được một đôi bông tai và chiếc nhẫn hột xoàn nho nhỏ là của hồi môn ngày cưới thì đã bán ra được vài ngàn Mỹ-kim để hùn với người sui gia mở trạm bán xăng tại thành phố Mountain View. Tại khu vực nầy tôi gặp cựu Phó Thủ Tướng Nguyễn Tôn Hoàn đang mở tiệm bán cơm. Tôi thì sáng nào cũng leo lên leo xuống để treo bảng thay đổi giá bán xăng. Trạm xăng nầy của hãng Texaco ngày trước có mở các trạm xăng Caltex ở Việt nam. Tôi đến xin và họ có sẵn một trạm xăng ế ẩm không ai khai thác nên họ đã tân trang sửa chữa lại cho tôi bán nhưng mình cũng phải bỏ ít tiền vào để kinh doanh. Chỉ tiếc rằng mới kinh doanh được 3 tháng thì bị lỗ khá nhiều nên đành bỏ cuộc !

Thế nhưng chưa hết, ông Nguyễn Bá Cẩn kể tiếp :”Vào giai đoạn 1975, ngành công nghệ kỹ thuật cao của Hoa Kỳ chưa phát triển, nhưng tôi quyết định đi học ngành HighTech nên đã trở lại đại học để học Computer Science mặc dù lúc đó tôi đã 46 tuổi. Sau khi tốt nghiệp Computer Science về lập trình (Programmer), từ đầu năm 1979 tôi đến xin việc tại Công ty dầu hỏa hàng đầu của Mỹ là Standard Oil of California, bây giờ là Chevron Texaco Corp. Hôm tôi đến hãng để được phỏng vấn, tôi cũng thấy nao nao như mọi người đi xin việc. Có 3 nhân viên cao cấp của Hãng tiếp tôi. Họ nói là trong đời họ, họ đã phỏng vấn hằng nghìn người rồi, nhưng đây là lần đầu tiên mà họ được phỏng vấn một cựu Thủ Tướng Chính Phủ. Nên họ muốn biết làm Thủ Tướng là làm cái gì ? Tôi thấy đỡ lo và chụp ngay cơ hội để nói về đề tài này hầu tránh bị phỏng vấn về chuyên môn. Tôi nói hết một giờ và họ nghe rất hào hứng.. Câu thứ hai họ lại nói rằng họ ngạc nhiên khi biết tôi còn làm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện nữa.. thế thì làm công việc gì ? Tôi lại có dịp nói thêm một giờ đồng hồ nữa. Sau hết, họ nhìn vào bằng cấp của tôi về ngành Computer Science.. họ hỏi : Ông từng làm Chủ Tịch Quốc Hội, từng làm Thủ Tướng Chính Phủ, nay ông làm nhân viên cho Hãng thì liệu ông có thoải mái (comfortable) để làm việc với chúng tôi không ?" Tôi trả lời rằng, trước khi làm các chức vụ đó tôi xuất phát từ một gia đình nông dân, tôi lên từ cuộc sống vất vả nghèo hèn ở đồng ruộng chân lấm tay bùn, và nay tôi đang phải làm lại từ đầu, từ con số không với cái căn bản nông dân quen thuộc của tôi nên tôi đâu có gì để ngại ngùng ! Và thế là tôi được tuyển dụng.

Công ty Chevron Texaco Corp. có 60,000 nhân viên trên khắp thế giới vào lúc nhân viên mới Nguyễn Bá Cẩn đến nhận việc, trụ sở trung ương đặt tại San Francisco. Riêng Computer Department có 1,200 chuyên viên. Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn kể rằng : ”Tôi được tuyển dụng làm tại Computer Dept. với phần vụ Programmer Analyst, rồi sau đó thăng lên trật System Analyst Designer, chuyên phân tích và viết phần mềm cho các kế hoạch Marketing của Chevron Texaco Corp. từ năm 1979 cho đến ngày tôi về nghỉ hưu vào cuối năm 1998 tức 20 năm đi làm công trên đất Mỹ. Trong 2 năm đầu, cứ 6 tháng tôi được lên lương một lần, trung bình từ 5 đến 10%, có một lần được tới 20%. Tôi ngạc nhiên hỏi họ thì họ nói đó là trả lương chính đáng và điều chỉnh theo đúng chỉ tiêu về khả năng và công việc tôi đã làm. Chức vụ cuối cùng để hưởng lương hưu của tôi là Senior System Analyst. Tổng kết cuộc đời, tôi đã làm việc gần 30 năm cho VNCH và 20 năm cho đại tư bản Hoa Kỳ. Suốt 50 năm không nghỉ ngơi ! Tại vùng Vịnh của San Francisco này, mỗi ngày tôi phải lái xe trên 100 miles để đi làm.. về nhà thì giặt giũ, phụ giúp việc nội trợ, vệ sinh... tôi làm mọi việc và vẫn thấy yêu đời, yêu cuộc sống bởi lương tâm tôi thanh thản vì đã phụng sự cho Tổ Quốc mà chưa hề làm gì tổn hại cho Tổ Quốc và đồng bào. Đối với gia đình thì tôi vẫn luôn là một người chồng, người cha nhân ái và gương mẫu.

Từ năm 1982-1983 cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã viết bài cho Wall Street Journal, viết trả lời các phỏng vấn của báo chí Mỹ, viết cho Liên Hiệp Quốc và cho cựu Tổng Thống Bill Clinton để yêu cầu họ áp lực Cộng sản Việt Nam phải tôn trọng nhân quyên cùng thực thi tự do dân chủ. Gần đây ông xuất hiện nhiều trong các bài diễn thuyết trước công chúng tại nhiều Tiểu Bang trên khắp Hoa Kỳ. Khi kể cho ký giả Hạnh Dương của Việt Báo về các chi tiết trên đây thì ông đã viết đến các trang cuối cùng của cuốn Hồi Ký mà theo ông là “Hồi ký của tôi không tấn công chê trách ai cả, không thiên kiến với ai cả... mà là viết cho 1 triệu Quân Cán Chính VNCH; viết cho gần 20 triệu người dân của VNCH, viết cho một sự thực lịch sử mà thôi. Giữa CSBV xâm lăng và Miền Nam nạn nhân, chính chúng ta mới là có chính nghĩa. Quân dân chúng ta đã chiến đấu anh hùng, chúng ta bị bắt buộc đầu hàng, buông súng.. bị phản bội !” Cuốn Hồi Ký của cựu Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn đã được xuất bản và được đón nhận khắp nời trên thế giới.

Ngày 01-5-2009, ký giả Hạnh Dương nhận được Email của ông Võ Duy Thưởng, Chánh Văn Phòng của cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn gởi nhờ phổ biến “Thư Ngỏ của cựu Thủ Tướng VNCH Nguyễn Bá Cẩn về việc đệ nạp hồ sơ đăng ký Thềm Lục Địa”. Tối Thứ Sáu 01-5-2009, Hạnh Dương gọi điện thoại cho cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn và xin một tấm hình của ông để đăng kèm theo bản tin. Ông đã gởi Email chuyển tấm hình của ông chụp vào thời gian nhậm chức Thủ Tướng và gọi điện thoại nói với Hạnh Dương rằng “Hình nầy có nhiều kỷ niệm, có vài vết lấm tấm vì khi Scan bị dơ, nhưng anh thích tấm hình nầy lắm.” Tấm hình đã được Hạnh Dương chỉnh lại các vết xước và gởi lại cho cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn với câu viết trong Email là “Hình của anh đã được sửa lại rồi rất đẹp trai”. Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn xem bản tin công bố trên Vietastic.com (http://vietastic.ning.com/profiles/blogs/ngoi-viet-tu-do-hai-ngoai-va ) và chuyển lên các Diễn Đàn Internet. Ông đã gọi điện thoại nói với ký giả Hạnh Dương :”Cám ơn đã gởi cho anh tấm hình bây giờ đẹp thật. Biết đâu vài ngày nữa anh sẽ cần tấm hình đó”.

Không biết câu nói trên đây của cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn có phải là câu nói như một điềm báo trước của định mệnh hay không; nhưng vào lúc 2:00PM chiều Thứ Tư 20-5-2009, Chánh Văn Phòng của cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn là ông Võ Duy Thưởng sau khi cho ký giả Hạnh Dương biết các chi tiết liên quan đến giờ phút cuối cùng của cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn lúc từ trần trên đường từ tư gia đến bệnh viện Regional Medical Center vào khoảng 3:20AM đến 3:30AM sáng Thứ Tư 20-5-2009; thì cùng lúc đã yêu cầu Hạnh Dương gởi tặng lại tấm hình mà Hạnh Dương đã chỉnh sửa của cựu Thủ Tướng để Ban Tổ Chức và gia đình có thể cần đến trong tang lễ !

Các hình ảnh và chi tiết về cuộc đời được trích đăng trên đây đã được chính cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cung cấp và kể cho ký giả Hạnh Dương trong cuộc phỏng vấn dành riêng trước khi cựu Thủ Tướng cho xuất bản cuốn Hồi Ký của ông về những giờ phút cuối cùng của Lịch sử VNCH. Chúng tôi sẽ đăng lại bài viết về cuộc phỏng vấn nầy để quý đọc giả theo dõi và sau nầy các sử gia cần đến.

Trong cuộc phỏng vấn, cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn đã cho hay rằng dưới chế độ Đệ I Cộng Hòa của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, lúc ông làm Quận Trưởng Cái Bè vào năm 1958 và năm sau 1959 được thăng chức Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh tỉnh Định Tường; rồi qua năm 1962 làm Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh tỉnh Phước Tuy, ông đã nhiều lần được đảng Cần Lao yêu cầu ông trở lại đạo Công Giáo nhưng ông quyết liệt từ chối. Nhưng khi đến định cư tại Hoa Kỳ, sau khi con gái của ông tử thương vì tai nạn, ông đã buồn khóc rất nhiều và mắt của ông gần như bị mù. Nghe nói Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes) tại Pháp là nơi linh thiêng và nhiều người khấn xin được Đức Mẹ chữa lành nên Phu Nhân của cựu Thủ Tường đã đưa ông qua Pháp để đến cầu nguyện tại nơi Đức Mẹ Hiện ra với chị Bernadette Soubirous từ ngày 11-02-1858 tới ngày 16-07-1858 trong 18 lần khác nhau. Chị Bernadette về sau trở thành nữ tu Marie-Bernard của dòng Các Nữ Tu Bác Ái Nevers (Soeurs de la Charité de Nevers). Soeur Marie-Bernard đã chết vào lúc 15 giờ 15 phút ngày 16-4-1879 và được chôn cất vào ngày 30-4-1879 trong nhà nguyện kính Thánh Giuse. Cho đến nay sau 3 lần khai mở hầm mộ của nữ tu nầy vào các ngày ngày 22-09-1909, ngày 03-04-1919 và ngày 18-4-1925 để khám nghiệm làm thủ tục phong thánh trước sự chứng kiến của các Bác Sĩ, Luật Sư và viên chức chính quyền và Giáo Hội Công Giáo, thì điều rất ngạc nhiên là xác của nữ tu Marie-Bernard nầy vẫn nguyên vẹn và mềm mại như người đang ngủ. Hiện nay thi thể của nữ tu nầy được bỏ trong quan tài bằng kính trong suốt và để trong nhà nguyện cho mọi người đến kính viếng cầu nguyện. Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn kể rằng ông chỉ đi theo đề nghị của vợ ông mà thôi chứ chẳng tin tưởng gì; nhưng sau khi thấy nhũng điều kỳ diệu như thế nên ông đã cầu nguyện và không ngờ là sáng hôm sau khi thức dậy hai mắt ông bừng sáng như chưa hề bị bệnh tật gì. Từ đó ông đã xin theo đạo Công Giáo và được chịu phép thánh tẩy tại Lộ Đức (Lourdes) ở Pháp và trở lại Hoa Kỳ đi thánh lễ nhà thờ mỗi ngày Chủ Nhật, rất sùng đạo và sống bình dị trong đức bác ái cho đến giờ phút ông vĩnh biệt gia đình và cộng đồng người Việt tự do tại Hoa Kỳ và hải ngoại vào lúc 3:20AM - 3:30AM ngày Thứ Tư 20-9-2009 ! Đây quả là một sự mất mát lớn không những cho người Việt tỵ nạn Cộng Sản mà còn cho đất nước Việt Nam vì ông vừa đệ nạp hồ sơ tranh đấu và bảo vệ Thềm Lục Địa Việt Nam khỏi bị Trung Cộng xâm lược và đang chờ Liên Hiệp Quốc luận xét; trong khi hồ sơ của CSVN thì né tránh vì mở miệng mắc quai bởi đã ký các Hiệp Ước dâng đất tặng Biển Đông cho Trung Cộng !

Chúng tôi xin cầu nguyện cho Linh hồn cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn được Thiên Chúa rước về Thiên Đường.

HẠNH DƯƠNG, Vietastic.com



Thơ Ngỏ của Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn



Mục Lục



Free Web
Template Provided by A Free Web Template.com